Liên kết website
Quảng cáo
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC - ThS. Nguyễn Thị Dư - Khoa GDTHMN

 

Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (CMCN 4.0) là cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đối với mọi mặt, trong đó có giáo dục đại học. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng, những cải cách giáo dục mang tính đột phá có thể dẫn đến những điều kỳ diệu. Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng đang đặt ra nhiều cơ hội, thách thức, giáo dục đại học Việt Nam cần tận dụng triệt để cơ hội, biến thách thức thành thời cơ và vận hội. Bài viết tập trung phân tích về tác động của cuộc CMCN 4.0 tới giáo dục đại học Việt Nam, cơ hội, thách thức, từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học trước tác động của cuộc CMCN 4.0.

Từ khóa: giáo dục đại học, CMCN 4.0, cơ hội, thách thức, giải pháp

1. Cách mạng công nghiệp 4.0 với giáo dục đại học Việt Nam

Cuộc CMCN 4.0 là sự gắn kết giữa các ngành công nghệ. Đó là các công nghệ Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Theo Khoa và cộng sự (2016), xuất hiện từ thập niên đầu của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng này đã thay đổi mạnh mẽ về nguồn lực sản xuất, máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành toàn bộ quá trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước. Các thiết bị tinh vi hơn như máy tính, điện thoại, các vệ tinh kết nối thông tin, hệ thống Internet lần lượt ra đời. Trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2011, cụm từ “Cách mạng công nghiệp 4.0” đã trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới và được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Bản chất của cuộc CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa qui trình, phương thức sản xuất, nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy.

Vậy cuộc CMCN 4.0 đối với giáo dục đại học Việt Nam được hiểu như thế nào?

Đó là một mô hình giáo dục thông minh, nhằm liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp. Đây là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho sinh viên cũng như giảng viên thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, gắn kết giữa giáo dục đại học với các doanh nghiệp cùng nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra cũng giúp cho hoạt động giảng dạy được diễn ra thuận lợi mọi lúc mọi nơi, người học có thể cá nhân hóa, hoàn toàn quyết định việc học tập của mình mà không cần gò bó về thời gian, địa điểm. Sinh viên có thể đeo kính VR (kính thực tế ảo) và có cảm giác như đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc, giúp bài học thấm thía hơn. Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Xóa bỏ quan niệm giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm là dính chặt với bốn bức tường, mà phải mở rộng kết hợp với các doanh nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một hệ sinh thái giáo dục.

2. Cơ hội và thách thức từ cuộc CMCN 4.0 đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam

          CMCN 4.0 đã đặt giáo dục đại học trước nhiều thách thức mới. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng này, bản thân các trường đại học có thể chưa dự đoán hết được những kĩ năng mà thị trường lao động cần. Hoạt động đào tạo và nghiên cứu của các trường đại học chủ yếu vẫn theo phương pháp truyền thống sẽ phải đối mặt với những thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, cơ cấu kiến thức, kĩ năng và phương pháp. Với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học cả tư duy những kiến thức, kĩ năng mới, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền thống chưa thể đáp ứng. Đây là thách thức lớn, đặc biệt trong bối cảnh nền giáo dục đại học của Việt Nam đã và đang còn bộc lộ nhiều hạn chế.

          Trong những năm gần đây, cải cách giáo dục tốn nhiều công sức nhưng chưa mang lại kết quả, hoạt động đào tạo tự phát, thiếu sự gắn kết giữa đào tạo và sử dụng. Có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là thiếu sự tương tác giữa Nhà nước và thị trường. Thị trường chưa thực sự trở thành căn cứ quan trọng để hoạch định chính sách cũng như định hướng đào tạo và chưa trở thành căn cứ để đánh giá tuyển chọn và sử dụng. Tình trạng dư thừa lao động diễn ra phổ biến, gây lãng phí lớn.

          Sự kết nối giữa các trường đại học và doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam còn yếu. Thiếu thể chế tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho liên kết, mở rộng quyền tự chủ cho một số lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, phối hợp đào tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Tuy Nhà nước đã có chính sách khuyến khích giảng viên, sinh viên đăng tải các công trình nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế đối với các trường đào tạo khoa học cơ bản nhưng đối với các trường kĩ thuật và công nghệ, chưa có sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp để thực hiện nghiên cứu ứng dụng với các hình thức thích hợp. Nghiên cứu chuyển giao, phối hợp nghiên cứu gắn với những yêu cầu thực tiễn của doanh nghiệp còn ở mức khiêm tốn.

           Cơ cấu các ngành đào tạo về cơ bản tự phát, chưa có định hướng rõ nét, xu hướng học để bảo đảm cuộc sống hiện tại, chưa chú ý đúng mức đến tiềm năng, kì vọng cá nhân, xu hướng phát triển của thời đại và yêu cầu của đất nước. Nhiều sinh viên giỏi về khoa học tự nhiên nhưng lựa chọn các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, ngoại thương,…

          Tuy nhiên, nếu thực sự biết nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng này mang lại sẽ thu hẹp hay gia tăng đáng kể chất lượng đào tạo của các trường, điều này phụ thuộc vào chính sách hợp lí của Nhà nước và của từng trường đại học. Bản thân các trường đại học phải có sự chuẩn bị tốt và thích nghi với giai đoạn mới này bởi bản thân các trường đại học không thể dự đoán được kĩ năng mà thị trường lao động cần trong tương lai gần, do tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ.

          Trong cuộc CMCN 4.0, có 4 nhân tố quan trọng tương tác lẫn nhau trong mỗi đại học: nhân lực, đào tạo, nghiên cứu và quá trình tự thay đổi. Đặc biệt, quá trình tự thay đổi diễn ra ở nhiều khía cạnh khác nhau, như đổi mới về tư duy quản lí, đánh giá đúng giá trị của đổi mới và sáng tạo, triết lí về đào tạo, đầu tư về hạ tầng công nghệ thông tin và phòng thí nghiệm tiên tiến.

          Điều quan trọng nhất mà các trường đại học cần phải làm trong giai đoạn này là xây dựng chương trình đại học theo định hướng 4.0. Để đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực tương lai phục vụ cho cuộc CMCN 4.0, các trường đại học ở Việt Nam cần từng bước xây dựng chương trình đào tạo trong đó xem xét các yếu tố như: định hướng ngành nghề và những kĩ năng mở rộng liên quan; đầu tư trang thiết bị phục vụ nghiên cứu và giảng dạy; bổ sung kiến thức, kĩ năng cho lực lượng giảng dạy, nghiên cứu. Đồng thời, hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia để thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo, nghiên cứu, phát triển ứng dụng một cách thực tiễn.

           Thậm chí, giáo dục định hướng CMCN 4.0 còn đặt ra cho các trường đại học trong quá trình giảng dạy phải tạo kiến thức nền tảng cho sinh viên, còn những “phần mềm” khác, người học phải tự học suốt đời để theo kịp thực tế. Các trường cần phải thiết kế chương trình linh động hơn, kiến thức cập nhật hơn, hướng tới phát triển các kĩ năng phù hợp với CMCN 4.0, phát triển tư duy hệ thống và liên ngành. Điều này có lẽ không chỉ đặt ra ở cấp đại học mà cần phải bắt đầu từ các cấp học dưới bởi những kĩ năng, kiến thức nâng cao cần có quá trình tích lũy và xây dựng từ những nền tảng cơ bản nhất.

          Bên cạnh đó, công nghệ đang từng bước giúp cá nhân hóa việc đào tạo thay vì giảng dạy một chương trình chung như hiện nay. Chẳng hạn, công nghệ trí tuệ nhân tạo sẽ giúp xác định rõ các điểm mạnh, yếu của từng người để đưa ra chương trình đào tạo riêng cho phù hợp. Cho nên, các trường đại học cần đẩy mạnh kênh truyền thông để sinh viên, nghiên cứu sinh chủ động nắm bắt cơ hội, lựa chọn chương trình học phù hợp vị trí đào tạo, nghiên cứu khoa học hoặc theo công việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Bên cạnh đó, mọi hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học sẽ đối mặt yêu cầu cải cách và cạnh tranh mới trong tương lai.

          Song song với việc xây dựng chương trình đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo theo định hướng 4.0, đổi mới mô hình trường đại học là giải pháp rất cần thiết. Cần chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình đào tạo “những gì thị trường sẽ cần”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp là yêu cầu được đặt ra. Đồng thời, quá trình đẩy mạnh hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp là cần thiết để chia các nguồn lực chung.

3. Yêu cầu đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam trước tác động của cuộc CMCN 4.0

Trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo trong thời đại 4.0 luôn đặt ra những vấn đề cần giải quyết và có giải pháp kịp thời, hiệu quả. Điều này có thể thấy rõ thông qua sự tác động của cuộc cách mạng tới quá trình học tập và định hướng giáo dục của các trường đại học tới sinh viên hiện nay.

Thứ nhất, nền tảng của CMCN 4.0 là sự kết nối giữa thế giới thật và ảo thông qua phần mềm công nghệ thông tin, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin và kỹ thuật số có vai trò rất quan trọng đối với nhà trường cũng như người học. Nhiệm vụ của các trường đại học trong giai đoạn tới phải đào tạo đủ chuyên gia công nghệ thông tin; tích cực trang bị cho sinh viên các kiến thức kỹ thuật số và kỹ năng có liên quan để đáp ứng nhu cầu xã hội trong nền công nghiệp 4.0. trang bị trình độ ngoại ngữ đủ để có thể làm việc ở mọi nơi trong tư cách của công dân toàn cầu.

Thứ hai, vấn đề việc làm và thất nghiệp là hiện tượng phổ biến của quá trình công nghiệp 4.0 và nhất là thời kỳ đầu khi lực lượng lao động chưa thích ứng với điều kiện mới của công nghiệp và sự chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động giữa các lĩnh vực. Thực tế đã có những thay đổi việc làm trên thị trường lao động, người máy bắt đầu thực hiện các công việc phổ thông thay cho con người. Người máy với nguồn học liệu vô tận có thể thực hiện tốt các bài giảng ở một số môn học như địa lý, lịch sử... và có thể hoàn toàn thay thế đội ngũ giáo viên hiện nay. Việc làm ở các lĩnh vực như tư vấn pháp luật, kế toán và tư vấn thuế cũng có thể bị thay thế hoàn toàn bởi các robot thông minh. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với các trường đại học là định hướng đào tạo đáp ứng yêu cầu ngành nghề của cuộc CMCN 4.0 và đào tạo lại để thích ứng với ngành nghề mới.

Thứ ba, chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa được linh hoạt, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu thế thị trường lao động CMCN 4.0. Giáo dục và huấn luyện là một trong 9 lĩnh vực có nhiều thay đổi, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề đào tạo và chương trình đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Các trường đại học thực hiện hoạt động đào tạo theo hai hướng: một mặt phải đáp ứng tính định hướng xã hội, mặt khác đào tạo cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tuy nhiên, áp lực đối với các trường đại học càng lớn khi chương trình đào tạo vừa đáp ứng tính chuyên môn cao trong lĩnh vực nhất định, vừa đáp ứng tính liên ngành (công nghệ thông tin, kỹ thuật số, mạng, kiến thức chuyên ngành). Các kỹ năng khác không thể thiếu, như: khả năng suy nghĩ có hệ thống, khả năng tổng hợp, khả năng liên kết giữa thế giới thực và ảo, khả năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác liên ngành… Trong bối cảnh kiến thức về công nghệ thay đổi rất nhanh, việc trang bị cách thức tự học và ý thức học tập suốt đời càng quan trọng hơn kiến thức của chương trình đào tạo. Như vậy, CMCN 4.0 đã tạo áp lực lớn trong hoạt động đào tạo đối với các trường đại học, từ xây dựng chương trình đào tạo, cập nhật nội dung chương trình cho đến đào tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp.

Thứ tư, một vấn đề khác đặt ra cho các cơ sở đào tạo bậc cao là cách thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến người học. Cách mạng 4.0 đòi hỏi phương thức và phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các hình thức đào tạo online, đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng… sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp trong tương lai. Điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải có sự chuẩn bị tốt nguồn lực tổ chức giảng dạy, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, xây dựng không gian học tập, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học…

Như vậy với khâu đầu tiên mang tính đột phá là công nghệ thông tin, CMCN 4.0 đã tác động to lớn mạnh mẽ đến thế giới nói chung Việt Nam nói riêng. Để làm được điều đó thì giáo dục đóng vai trò nòng cốt... Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải thay đổi căn bản, không chỉ đổi mới trên phương diện đào tạo ngành nghề hay giáo dục ở bậc đại học, mà cần thay đổi từ giáo dục bậc phổ thông, mẫu giáo; yêu cầu đặc biệt hiện nay là giáo dục ý thức và kỹ năng của một công dân toàn cầu. 

4. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam trước tác động của cuộc CMCN 4.0

Xác định rõ những thách thức đang đặt ra đối với ngành giáo dục và đào tạo, Đảng ta nhấn mạnh quan điểm: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Thực hiện chủ trương đó, các trường đại học cần phải đổi mới thực sự và nhanh chóng, trước hết là đổi mới hoạt động quản lý của nhà trường và đội ngũ giảng viên.

3.1. Đối với các trường đại học

Các trường đại học cần chuyển mô hình đào tạo từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học; từ đào tạo chủ yếu theo số lượng sang nâng cao cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; từ chỉ chú trọng truyền đạt kiến thức sang kết hợp ba mục tiêu: kiến thức, kỹ năng và thái độ để phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân. Đối với sinh viên, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, xử lý tình huống, rèn luyện tư duy. Không chỉ học trong giáo trình, sách vở, mà phải học qua thực hành, thực tế kinh tế- xã hội, qua trò chơi, liên hệ tương tác, qua dự án, và phải xác định học là công việc thường xuyên, liên tục và học cả đời.

Chương trình đào tạo cần xác định cụ thể các chuẩn đầu ra, phẩm chất chung và năng lực chuyên môn; phải nhanh chóng đổi mới từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục, nhất là đánh giá sinh viên tốt nghiệp. Mục tiêu đào tạo phải hướng tới sinh viên ra trường có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Trường đại học phải là nơi dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh viên khởi nghiệp, kết nối với thị trường và doanh nghiệp.

Như vậy, hệ thống giáo dục đại học phải tập trung vào phát triển phẩm chất và năng lực của người học thông qua việc định hướng các con đường phù hợp nhất cho các nhóm sinh viên khác nhau để giúp họ phát huy được tiềm năng của mỗi cá nhân. Thương hiệu của một trường đại học không chỉ được đánh giá thông qua tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm, nhất là đúng ngành, vị trí trên bảng xếp hạng quốc gia, quốc tế, mà còn là sự phát triển bền vững của sinh viên, khả năng thích ứng với môi trường làm việc mới, năng lực đổi mới và sáng tạo trong quá trình hoạt động chuyên môn. Để đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học cần có nhiều chương trình, cả đào tạo và bồi dưỡng dành cho các đối tượng khác nhau, nhất là cựu sinh viên, giúp họ cập nhật tri thức mới để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính mình. Nghĩa là các trường phải là nơi hỗ trợ sinh viên học tập suốt đời; phải thường xuyên đổi mới. Cụ thể:

Một là, thường xuyên rà soát, đổi mới chương trình đào tạo, gắn lý thuyết với thực tiễn. Công tác đào tạo đại học trước hết cung cấp hệ thống lý luận cơ bản, như là nền tảng vững chắc để sinh viên có “vốn” để tiếp cận những vấn đề thực tiễn đang biến đổi không ngừng. Tạo điều kiện tối đa cho sinh viên thực hành, thực tập, làm quen và nắm bắt được những tiến bộ của khoa học - công nghệ trên lĩnh vực được đào tạo.

Hai là, đa dạng hóa các chương trình, phục vụ mọi nhu cầu học tập của sinh viên. Mỗi sinh viên có nhu cầu và khả năng học tập khác nhau. Nhà trường xây dựng cơ chế để phát hiện, nuôi dưỡng và tạo động lực để sinh viên xác định và theo đuổi sự quan tâm, niềm đam mê của mình. Điều này đòi hỏi trường đại học xây dựng các chương trình, lộ trình đào tạo khác nhau để phục vụ cho những nhu cầu và phong cách học tập khác nhau. Có người có nhu cầu học nhanh, tốt nghiệp sớm; hoặc học tập trung vào một số môn trọng tâm trước, sau khi đi làm sẽ quay trở lại hoàn thiện chương trình.

Ba là, đẩy mạnh học ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình dạy-học và quản trị nhà trường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng như hiện nay, ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh là chìa khóa để mở rộng, cập nhật tri thức nhân loại. Không giỏi ngoại ngữ, không thể đạt thành tựu về khoa học công nghệ. Nên ứng dụng công nghệ tiên tiến trong giảng dạy ngoại ngữ, với hệ thống học liệu điện tử phù hợp mọi đối tượng để người học có thể học ngoại ngữ mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện, đặc biệt trong phát triển kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Kiến tạo môi trường học ngoại ngữ trong nhà trường, gia đình và xã hội để mọi người cùng nhau học ngoại ngữ. Tạo điều kiện cho người học tiếp cận kỹ thuật số và công nghệ để dễ dàng tiếp thu thành tựu mới về khoa học - công nghệ của thế giới.

Bốn là, phải xây dựng các trường đại học thành các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Các trường đại học cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc thực hiện sứ mệnh nghiên cứu khoa học- công nghệ; là bệ đỡ thúc đẩy sáng tạo, cung cấp một bệ phóng cho giới trẻ và các công ty khởi nghiệp, giữ nhịp phát triển cho các ngành công nghiệp. Các trường đại học cũng cần đón đầu xu hướng là thời gian đào tạo người lao động trình độ cao sẽ không chỉ giới hạn trong thời gian ngắn, mà là trong suốt cuộc đời lao động của họ, khi người học tiếp tục quay trở lại để có thêm kiến thức và kỹ năng sau khi tốt nghiệp.

3.2. Đối với đội ngũ giảng viên

Theo phương pháp giáo dục truyền thống, người thầy truyền tải tri thức, thông tin cho sinh viên, hiện nay các trang mạng trên In ternet đang dần thay thế vai trò đó, cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, tiện lợi và miễn phí. Sinh viên không còn bị giới hạn trong bốn bức tường phòng học mà có điều kiện học mọi lúc mọi nơi, mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Vấn đề đặt ra là, khi công nghệ hỗ trợ tối đa mục tiêu kiến thức và kỹ năng, nhưng không thể thay thế người thầy chuyền tải, truyền cảm hứng cho sinh viên về thái độ sống và làm việc, thích ứng với mọi thay đổi, về tính hợp tác và năng lực sáng tạo. Hiện nay, năng lực và thái độ có vai trò quyết định trong mục tiêu đào tạo của các Nhà trường. Kiến thức không chỉ được tiếp nhận thông qua giáo trình, tài liệu tham khảo, trên lớp, mà được bổ sung, đổi mới và nhân lên từng giờ từng phút, sinh viên có thể dễ dàng học tập, nhưng phải qua đối thoại, làm việc nhóm, phản biện vấn đề, người thầy sẽ kích thích năng lực tư duy, niềm đam mê nghiên cứu và khám phá cái mới trong sinh viên.

Các hình thức học online, học trực tuyến đòi hỏi người thầy không phải truyền thụ kiến thức nữa, mà phải là người hướng dẫn, điều phối tạo ra môi trường học tập cho sinh viên; không phải giảng bài mà tập trung giúp sinh viên định hướng việc học. Người giảng viên không chỉ phải giỏi về chuyên môn, sẵn sàng giải đáp câu hỏi của sinh viên, mà còn phải có bản lĩnh, thường xuyên nâng cao năng lực thích ứng với hoàn cảnh mới, nhất là kịp thời đổi mới phương pháp dạy học, tối đa hóa ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện trực quan vào quá trình dạy học.

Vì vậy, vai trò của giảng viên thay đổi mạnh mẽ. Để đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0, đội ngũ giảng viên cần phải được bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực bằng những biện pháp như tập huấn sử dụng công nghệ phục vụ dạy học, ứng dụng các hình thức tiên tiến, mô hình trực tuyến vào công tác bồi dưỡng giảng viên, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng theo hướng nghiên cứu và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Cụ thể:

Một là, nâng cao năng lực chuyên môn. Phải bồi dưỡng cho giảng viên nắm bắt được và tham gia các hình thức đào tạo tiên tiến, đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa để vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới, qua đó giúp họ bổ sung kiến thức chuyên môn, đa dạng hóa các hình thức giảng dạy. Trong thời gian tới, các mô hình giảng dạy trực tuyến sẽ được ứng dụng trong đào tạo đại học, như E-learning (mô hình hệ thống quản lý qua mạng); B-learning (mô hình dạy học kết hợp học tập trên lớp và học hợp tác qua mạng và tự học); hội thảo truyền hình (nhiều người hội thảo từ xa, thông qua truyền hình trao đổi, giao tiếp với nhau). Trong thời đại hiện nay, cần nhân rộng mô hình liên kết giữa nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên đổi mới, sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn.

Hai là, nâng cao năng lực sử dụng các thiết bị, phương tiện hiện đại trong giảng dạy. Đó là năng lực quản lý tài nguyên, dữ liệu trên internet, sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ mới phục vụ quá trình dạy học. Vì vậy, đội ngũ giảng viên phải thường xuyên được học tập, bồi dưỡng về tin học, phương pháp sử dụng công nghệ thông tin, để chủ động hướng dẫn sinh viên cập nhật kiến thức và công nghệ.

Ba là, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu khoa học được áp dụng đầu tiên và trước hết vào công tác giảng dạy. Khi đó, nội dung bài giảng mới có chiều sâu, tạo điều kiện để giảng viên ứng dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại. Thông qua nghiên cứu khoa học, năng lực tư duy của giảng viên được rèn luyện và tăng cường.

Bốn là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ. Hiện nay, tiếng Anh là ngôn ngữ mang tính toàn cầu. Hầu hết các thành tựu khoa học- công nghệ được chuyển tải bằng tiếng Anh. Vì vậy, để kế thừa và tiếp thu những tinh hoa tri thức của thế giới, giảng viên đại học phải thông thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc của các đại học tiên tiến trên thế giới.

Như vậy, trường đại học trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu khoa học, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên, nâng cao năng suất lao động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Hiện nay, số lượng sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập ngày càng tăng, đang đặt ra thách thức lớn đối với các trường đại học trong nước. Vì vậy, các trường phải xây dựng chiến lược phát triển thích ứng với thời kỳ mới, mạnh dạn đổi mới công tác đào tạo, từ đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy đến xây dựng đội ngũ giảng viên, đổi mới công tác quản trị nhà nước theo những tiêu chí mới- khoa học và hiện đại. Có như vậy, các trường đại học nước ta mới theo kịp các trường tiên tiến trên thế giới và khu vực, và đáp ứng được những yêu cầu của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0./.

                                                                                                     N.T.D

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

[2] Chu Ngọc Anh (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, http://www.tapchicongsan.org.vn.

 [3] Nguyễn Văn Bình (chủ biên) - Nguyễn Ngọc Anh - Phạm Lan Anh (2017). Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

[4] Đặng Quốc Bảo – Lê Thị Phương Hồng (2017). Xây dựng xã hội học tập trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạp chí Giáo dục, số 412, tr 1-3.

[5] Phan Chí Thành (2018). Cách mạng công nghiệp 4.0 - xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến. Tạp chí Giáo dục, số 421, tr 43-46; 19.

[6] Nguyễn Thị Thanh Tùng - Ngô Văn Tuần (2018). Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí Giáo dục, số 426, tr 1-4.

Liên hệ với tác giả theo địa chỉ

 

 

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Thông báo
Thời tiết
Thời tiết Hà Nội